Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2025

LƯƠNG TƯỚNG

Mạn đàm về LƯƠNG TƯỚNG


Các vị tướng súy nổi tiếng xưa nay, theo binh thư ghi chép lại, người tướng tài phải rõ được :NGŨ ÂM -  NGŨ TRẬN - NGŨ TƯỚNG - NGŨ HƯỚNG - NGŨ CHƯỚNG.

            Nói về Ngũ âm là nói về năm âm thanh gốc của vũ trụ không thay đổi là Cung, Thương, Giác, Chủy, Vũ.

            Về Ngũ trận pháp, cổ kim có 5 loại trận pháp căn bản từ đó biến dụng ra mà dùng đó là:Thiên Trận, Địa Trận, Nhân Trận, Thần Trận, Nhẫn Trận.

            Luận về Ngũ tướng là nói về 5 hạng tướng, bao gồm:

- Thần tướng: Lấy thời để tỏ bày, lấy đất để biến hóa, lấy Nhân để sử dụng.

- Cường tướng: Hạng tướng không cần xét thiên thời địa lợi khi hành binh, ai nghe đến cũng sợ hãi.

- Mãnh tướng: Giỏi về biến hóa trận thế, ra quân bất ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một kiếm tung hoành về phía trước.

- Lương tướng: Bên ngoài thì uy nghêm, bên trong thì nhân nghĩa, ở giữa thì mạnh mẽ.

- Uy tướng: Lấy tín nghĩa, thưởng phạt rõ ràng.

 - Lương tướng (良將) là một khái niệm trong binh pháp và lịch sử quân sự, dùng để chỉ những vị tướng tài giỏi, có đức độ, mưu lược xuất sắc và trung thành với đất nước hoặc quân chủ mà họ phục vụ.

Cụ thể:

Đặc điểm của một Lương tướng

1. Tài mưu lược – Có khả năng bày binh bố trận, điều binh khiển tướng, biết cách ứng biến linh hoạt trên chiến trường.

2. Dũng cảm, quyết đoán – Không sợ khó khăn, nguy hiểm, dám đối mặt với thử thách.

3. Nhân nghĩa và đức độ – Đối xử tốt với binh sĩ, được lòng quân, không tàn bạo vô cớ.

4. Trung thành và tận tâm – Luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.

5. Biết dùng người – Nhận diện nhân tài, đặt đúng người vào đúng vị trí.

Một số Lương tướng tiêu biểu trong lịch sử

Hán Cao Tổ Lưu Bang từng ca ngợi Hàn Tín là “Lương tướng” vì tài năng quân sự kiệt xuất.

Gia Cát Lượng (Thời Tam Quốc) là hình mẫu về một vị Lương tướng mưu trí và tận trung.

Nhạc Phi (Nhà Tống) với câu nói nổi tiếng “Tận trung báo quốc”.

Trần Hưng Đạo (Việt Nam) được xem là Lương tướng kiệt xuất, lãnh đạo quân dân đánh bại quân Nguyên – Mông.

    Lương tướng trong binh pháp. Khái niệm này xuất hiện nhiều trong Binh pháp Tôn Tử, “Một Lương tướng không chỉ giỏi chiến đấu mà còn biết cách giữ gìn sức mạnh của quân đội, biết thời điểm tiến lui, không đánh trận vô nghĩa.”

    Luận về Tướng hay có năm điều: Dũng,Trí, Nhân, Tín, Trung. Dũng mà coi thường cái chết dễ bị hại, Trí mà nhút nhát thì khốn đốn, Nhân mà ái kiến thì sinh phiền nhiễu, Liêm mà không thương người thì bị khinh nhờn, Cương mà chỉ theo ý mình thì thành tai hại. Nhu mà hay nghe người thì bị chèn ép.

    Bàn về cái hạnh xưa nay của người làm tướng thì đối với mình phải trong sạch, đối với kẻ sĩ thì quý trọng. Bởi thế cho nên nếu tướng súy không nghe lời khuyên can thì các anh hùng sẽ lẩn tránh; tướng không nghe theo kế sách hay thì mưu sĩ sẽ bỏ đi; coi thiện ác như nhau thì kẻ hiền và người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lẫn lộn thì giềng mối sẽ tan rã; thường mừng thì thiếu uy nghiêm; thường giận thì lòng người xa lìa; nói nhiều thì cơ mật tiết lộ; ham thich nhiều thì tâm trí nghi ngờ, mê loạn: khoan dung thì làm cho quân sĩ cảm kích, hung bạo thì làm cho quân sĩ tức giận.

Cho nên phương châm sống của tướng súy nên:

    Xem nhẹ tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch;Tránh xa việc hiềm nghi để vượt lên; Lặng lẽ lo xa để khỏi thất bại; Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập công; Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để quy tụ tình thương; Nghe điều lành, đuổi bỏ kẻ gièm pha để tiến xa; Trước đo lường, sau hành động để mà ứng biến; Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới; Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng công lao để sửa người; Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người; Coi rẻ sắc đẹp, quý trọng người để được người; Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ nước; Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang; Đánh trận như sấm sét, sắp đặt khéo léo như quý nhân; Suy tư như ánh chiều, mệnh lệnh như sương tuyết; <break time=0.5s/>Được như thế mới đảm đương được việc lớn của quốc gia.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

Thư trả lời của Hậu học Quảng Kiến về: Thật đức và hư đức của các pháp




Thưa Thầy,


Trong bộ luận Đại Trí Độ, có nói về hai phương diện của một pháp: “sở hữu tính” (tính riêng biệt) và “tột sở hữu tính” (tính phổ quát, bản thể tối hậu). Cũng vậy, các kinh Duy Thức và Lăng Già dạy rằng, “tự chứng phần” của mỗi chúng sinh là riêng biệt, tốt xấu tùy theo nghiệp duyên huân tập. Tuy nhiên, "bản thể chân thật không” - lại đồng nhất nơi tất cả. Đây chính là ý nghĩa của “Duy Thức Tính”, cũng là “tột sở hữu tính” mà Bồ-tát Long Thọ đề cập từ trong bộ Bát Nhã.


Ví như nước có tính ướt, lửa có tính nóng - đó là “sở hữu tính”. Còn "tột sở hữu tính", tức tính chân không, là điều mà kinh Lăng Nghiêm giảng:


Tính thủy chân không, tính không chân thủy;

Tính hỏa chân không, tính không chân hỏa.


    Đây là nghĩa sâu của lý “không”, mà Thầy cần quán chiếu kỹ lưỡng hơn để nhận ra đạo lý viên dung trong pháp giới.


    Nay xin bàn chi tiết về thật đức và hư đức của ngũ hành (Kim, Hoả, Mộc, Thổ, Thuỷ). Thật đức hay hư đức chính là cảnh giới mà mỗi người cảm nhận tùy theo nghiệp thức. Từ tướng phần (cái được thấy) thông qua kiến phần (cái thấy) mà hình thành tự chứng phần (cái biết riêng của mình) – tức là cái “ngã” của mỗi chúng sinh. Cái ngã này, tùy theo chủng tử huân tập nơi A-lại-da thức, chiêu cảm ra cảnh giới tốt hoặc xấu.


Thật đức là pháp thuận duyên, giúp tăng trưởng quả thiện. Ngược lại, hư đức là pháp trái duyên, khiến nhân thiện gặp trở ngại, hoặc dẫn đến quả xấu. Như vậy, tốt hay xấu không nằm ở pháp, mà ở cách vận hành của các pháp trong sự tương tác nhân quả. Đây cũng chính là ý nghĩa của “bất cấu bất tịnh” trong Bát Nhã.


Cụ thể:

Thuỷ biểu hiện tín và bất tín, hình thái là hãm hoặc tụ.

Hoả biểu hiện trí và ngu, thật đức là tráng lệ, hư đức là trống rỗng.

Địa biểu hiện nhân và bất nhân, thật đức là thuận, hư đức là nghịch.

Kim biểu hiện nghĩa và bất nghĩa, thật đức là kiện (mạnh), hư đức là nhược (yếu).

Mộc biểu hiện lễ và bất lễ, trạng thái là linh động hoặc trì trệ bất hòa.


Ngũ hành thuộc về ba đại trong bảy đại mà Đức Thế Tôn giảng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm: Địa đại, Thuỷ đại, Hoả đại. Trong Địa đại có ba yếu tố: Thổ, Kim, Mộc. Tiếp đến là Không đại (là vô tướng của ngũ hành) và Phong đại (sự vận động của ngũ hành). Hai đại cuối là Kiến đại và Thức đại, thuộc về tâm pháp, 5 đại trước thuộc về sắc pháp.


    Người tu, khi bắt đầu cần thấu rõ bản chất, tính, tướng, dụng, của ngũ hành, tiến lên quán thông bảy đại, dần đạt đến viên thông pháp giới. Theo kinh Viên Giácba đại đầu giúp phá ngã chấp nơi sắc pháp, còn bốn đại sau phá pháp chấp nơi tâm pháp. Đây chính là mục tiêu tối hậu của sự tu tập – vượt thoát cả tướng hữu vi lẫn vô vi, đạt đến chân như bình đẳng.


Lời lẽ nơi đây khó trọn ý, mong Thầy quán xét thêm và chúng ta sẽ cùng nhau bàn rộng hơn vào dịp khác.


Kính bút.

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

Xuân Hạ Thu Đông sáng với chiều


 Xuân Hạ Thu Đông sáng với chiều

Thế gian hết giận lại rồi yêu
Trẻ người non dạ tìm hư ảo
Già lão thân mòn cố bước xiêu
Ham của đèo bồng, thêm nặng nợ
Mơ màng danh vọng, ít mong nhiều
Có-Không huyễn cảnh người nên nhớ
Tham dục xa rời tránh ma-tiêu.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

Thiền Dục giới (Luân Xa)

1. Thiền Dục giới:

(Thiền dục giới là thiền ở các cõi còn ái dục như người, trời, thần, quỷ )

Là các phép tu luyện như ăn kiểu riêng, uống kiểu riêng, chế thuốc bổ kiểu riêng, luyện tâp bùa chú riêng... nhằm mục đích có các phép thần thông ở Dục giới. Trong các phương pháp ấy, hiện nay phổ thông nhất là phép tu luyện Luân-xa. Luân xa là các huyện đạo trên cơ thể người. Tất cả có 12 luân xa tương ứng với 12 giờ trong một ngày trên cơ thể. Luyện khai mở Luân xa chủ yếu là các huyệt ở phía trước cơ thể, có 7 luân xa gồm: 

- Luân xa số 1 gọi là huyện Hội âm, thành tựu hay gọi là khai mở thì đắc phép Thần Túc Thông.

- Luân xa số 2 là huyện Đan Điền (cách rốn 2 đốt ngón tay ) khai mở được luân xa này thì đắc phép Túc mệnh Thông.

- Luân xa số 3 là huyệt Đản Trung (giao giữa ngực và hai núm vú ), khai mở được thì thành tựu phép Tha tâm thông.

- Luân xa số 4 là huyệt Thiên Đột (ở hõm cổ ) thành tựu thì sẽ đắc pháp Thiên Nhĩ Thông.

- Luân xa số 5 là huyệt Ấn đường (giao giữa hai lông mày và sống mũi ) khai mở huyệt này đắc phép Thiên Nhỡn Thông.

- Luân xa số 6 là Huyệt Cự Khuyết (ngay lỗ rốn ) Khai mở được luân xa này thì hỗ trợ tăng thêm cho phép Thần túc Thông.

- Luân xa số 7 cuối cùng là huyệt Bách hội (giao giữa hai lỗ tai và đường đỉnh đầu chính giữa) thành tựu Túc Mạng Thông.

Việc tu luyện khai mở 7 luân xa này nếu ăn thịt uống rượu và ăn hành tỏi hẹ kiệu là ngũ vị tân thì sẽ bị mắc sai lầm mà người ta thường nói đùa là " tẩu hoả nhập ma", cụ thể sẽ mắc bệnh hoang tưởng hoang đường, lúc nào cũng tưởng mình là thần là thánh cuối cùng sẽ chết vì hoang tưởng đó, bệnh thứ hai là bị kích thích dâm dục quá độ thành ra cuồng loạn dâm.

                  Trong các bộ kinh Trung bộ, trường A hàm, tăng nhất A hàm, Tạp A hàm và các bộ kinh Đại Thừa Đức Phật có kể lại câu chuyện có một nhóm người tu khai mở luân xa thành công đã bay được trên trời, thế nhưng một số ông tiên (Ấn độ gọi là các vị thuật sỹ) có dặn rằng: Khi đang luyện các phép bay trên trời thì đừng sinh tâm tham tài sắc danh thực thuỵ là ngũ dục thế gian, nếu sinh ra sẽ bị mất phép thần thông. Ví dụ vào đời quá khứ có ông Vua bắt tất cả các cung nữ khoả thân múa cho ông ấy xem, ông ấy vỗ tay có vẻ sung sướng lắm. Lúc bấy giờ có một đoàn người đã luyện tập bay được trên trời là đã thành tựu phép mở luân xa Thần túc thông. Bay qua đó sinh tâm thèm khát ái dục lập tức bị mất phép thần thông ngã từ trên cao xuống nặng thì bể đầu chết nhẹ thì gãy hết chân tay tàn phế. 

                  Đó là cái đau khổ thứ nhất của thần thông dục giới là phép khai mở luân xa. Hiện nay bên Tây tạng gọi phép luyện này là "suối nguồn tươi trẻ". Cái đau khổ thứ hai là sinh ra loại người tu khổ hạnh khoả thân trần truồng đi ăn xin, bọn này gọi là phái tu Ni can đa, thuộc lục sư ngoại đạo. Vì trần truồng nên suốt đời bị ruồi muỗi rắn rết đốt nên rất nhiều người bỏ mạng oan uổng hoặc bị thương tật hoá thành bệnh thần kinh.

                  Đó là hai cái đau khổ của thiền định Dục giới.

                  Đức Phật có nói: thân chúng sinh đã bất tịnh thì các luân xa cũng bất tịnh như thân chúng sinh. Tại làm sao lại dựa vào cái uế tạp để tu luyện. Dù có thành tựu thì khi cái thân tan rã thì cái thần thông đó ko còn chỗ dựa cũng mất theo đến đời sau lại phải tu luyện lại từ đầu. Gọi là cực kỳ dại dột. Cũng như luyện nhân điện, có người cũng biết được chuyện này chuyện kia ở tương lai. Có ngươi bị sét đánh, sau khi bị sét đánh thì có luồng điện trong người thì biết được một số chuyện nhưng phải chịu một số bệnh, hoặc là mù loà, hoặc là ốm yếu. Bình thường thì bị bệnh thần kinh, thỉnh thoảng nói ra được một số chuyện người ta nghe người ta thích thì người ta cho ít tiền đồ ăn nhưng suốt đời nghèo khổ có cuộc sống không bình thường, thậm chí mù mắt như bà Vanga người Bungary. Như vậy luyện năng lượng cũng là một phép luyện luân xa, được thì ít mất thì nhiều. Phật dạy những người như vậy là vô cùng dại dột, cực kỳ ngủ si.

                                    Trên đây gọi là phép tu thiền định Dục giới, trong kinh Thủ lăng nghiêm thuyết là 10 phép tu tiên. Phép tu dựa trên sự giả dối của các huỵệt đạo luân xa thì cái quả cũng là giả dối. Mà giả dối là đau khổ.

...còn tiếp...

Phần 2 ( Thiền sắc giới)


(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2024

PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG PHẬT GIÁO



A. Các Pháp thế gian = Hữulậu = Hữu vi


Các Pháp này bao giờ cũng có bốn phần:

1. Thấy vấn đề = Kết quả cuả vấn đề: 

Đây là các kết quả tốt gọi là thiện hữu lậu là ba cõi Thiên, Nhân, Atula.
Và các kết quả xấu là ba cõi Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh.

2. Nguyên nhân của vấn đề = Nhận thức vấn đề:

Nguyên nhân của các kết quả tốt ở người là giữ được Ngũ giới
Nguyên nhân của Atula là giữ chưa trọn vẹn ngũ giới, thích đấu tranh quá mức độ do đó phạm vào giới sát nhiều.
Nguyên nhân của Cõi Trời dục giới là thực hành được 10 điều thiện.
Nguyên nhân của Thiên Ma ba tuần (Ác ma) ở cõi trời Tha hóa tự tại thứ 6 dục giới là tuy làm được 10 điều thiện nhưng lại xen kẽ phạm giới bất tà dâm mà có cõi này.
Nguyên nhân của các cõi trời sắc giới là tu 10 điều thiện nhưng có phần hơn là diệt trừ hoàn toàn khả năng tình dục.
Nguyên nhân của các cõi trời Vô sắc giới là cũng như các cõi trời sắc giới nhưng mắc cái lỗi là chấp sự rỗng không hư vô, dễ mắc đến đoạn diệt kiến tà đạo. Do đó hết kiếp ở cõi trời vô sắc giới thì lại quay lại dục giới như cũ.

3. Phương pháp giải quyết vấn đề:

Ở cõi người phải thành tựu tinh thông 5 nghề: Sĩ (trí thức), Công (công nghiệp), Nông (Nông nghiệp), Thương ( thương mại). Và binh (Quân sự). Tất cả 5 nghề này phải tinh thông kèm theo giữ nghiêm ngũ giới.
Ở các cõi trời dục giới thì giữ nghiêm việc thực hành 10 điều thiện nhưng phải biết quy y Tam bảo để có hướng tiến lên tốt ở đời tương lai.
Ở các cõi trời sắc giới thì cũng như các cõi trời dục giới nhưng phải làm thêm việc tu học theo tứ niệm xứ của tiểu thừa Phật Pháp thì tương lai sẽ tu hành tốt theo tiểu thừa Phật pháp.
Ở các cõi trời vô sắc giới thì cũng như các cõi trời sắc giới nhưng phải phá cái chấp hư vô rỗng không để đời kiếp sau tu theo tiểu thừa khi được quay lại làm người.

4. Kết quả của việc làm đúng theo phương pháp giải quyết vấn đề:

Ở cõi người thì thành tựu được: Phú Quý Phúc Lộc Thọ
Ở cõi trời dục giới thì hết kiếp quay lại làm người sẽ tu học theo Phật pháp được viên mãn trong các đời tương lai.
Nếu ở cõi Ma vương ba tuần thì sẽ thoát nghiệp ma, quay lại kiếp người tu học theo Phật Pháp được viên mãn.
Ở các cõi trời sắc giới thì sau khi hết kiếp, quay lại làm người sẽ thành công việc tu theo tiểu thừa Phật pháp. Riêng những người thượng căn ở đệ tứ thiền sắc giới sẽ đắc quả Alahan ở cõi đó nhờ được sự giáo hóa của đức Phật Lô Xá Na là viên mãn báo thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ở các cõi trời vô sắc giới nếu thực hành đúng phép tu theo tiểu thừa thì kiếp sau quay lại làm người sẽ gặp minh sư thiện hữu giáo hóa cho tu theo tiểu thừa thành công. Những người này sẽ thoát khỏi quả báo ác là bị đọa địa ngục do cái nghiệp chấp hư vô rỗng không gây ra.

(còn nữa)

B. Các pháp xuất thế gian tiểu thừa và trung thừa với việc đặt vấn đề và giải quyết vấn đề